EU enlargement and South East Asia, Vietnam's opportunities for cooperation, international political implications. Developments in new EU member states and their relations with Vietnam (Poland, Slovakia, Czech Rep., Hungary)
The ASEAN-China dialogic relation was started at the 24th ASEAN Foreign Ministers Meeting in July 1991 in Kuala Lumpur, Malaysia. After more than two decades of development, the ASEAN-China cooperation has become one of the most active and effective partnerships among ASEAN relationships with dialogic partners. This relationship has made great contributions to the peace, security and development of Southeast Asia in general, ASEAN and China in particular. This article focuses on analyzing factors that led to the establishment of the ASEAN-China relationship, the process of establishing their dialogue relation and the significance of this relation. ; Quan hệ đối thoại ASEAN - Trung Quốc đã được bắt đầu tại Hội nghị Ngoại trưởng các nước ASEAN lần thứ 24 họp vào tháng 7 năm 1991 tại Kuala Lumpur, Malaysia. Sau hơn hai thập niên phát triển, quan hệ hợp tác ASEAN - Trung Quốc đã trở thành một trong các mối quan hệ hợp tác sôi động nhất và hiệu quả nhất trong số các quan hệ của ASEAN với các đối tác đối thoại. Mối quan hệ này đã có những đóng góp to lớn đối với hòa bình, an ninh và phát triển của Đông Nam Á nói chung, ASEAN và Trung Quốc nói riêng. Bài viết tập trung đi vào phân tích những nhân tố dẫn đến sự ra đời quan hệ ASEAN - Trung Quốc, cho đến quá trình thiết lập quan hệ đối thoại và ý nghĩa của việc thành lập quan hệ đối thoại giữa hai bên.
The idea of Vietnam's opening, cooperating and integrating into the world has been sprung up in the very early days of the modern Vietnamese diplomacy under the leadership of President Ho Chi Minh. In the Doi Moi era, with creative application of Ho Chi Minh's Thoughts on international cooperation and integration, the Communist Party of Vietnam has gradually supplemented, improved and developed its perception on international integration in accordance with the evaluation of the world situation, international relations, new trends, the interactive relations between Vietnam and the world, opportunities and challenges for Vietnam in realizing the goals of security, development and raising its position in the international arena. The research paper will focus on studying the evolution of the Communist Party of Vietnam's perception on international integration, a crucial factor contributing to significant achievements in the cause of national renovation in general and foreign policy renewal in particular. ; Tư tưởng mở cửa, hợp tác và hội nhập với thế giới của Việt Nam đã được hình thành từ những ngày đầu tiên của nền ngoại giao Việt Nam hiện đại, dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bước sang thời kỳ Đổi Mới, vận dụng sáng tạo Tư tưởng Hồ Chí Minh về hợp tác và hội nhập quốc tế, Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng bước hoàn thiện, bổ sung và phát triển tư duy về hội nhập quốc tế trên cơ sở đánh giá tình hình thế giới, quan hệ quốc tế, các xu thế mới, các mối tương quan giữa Việt Nam và thế giới cũng như những cơ hội và thách thức đối với Việt Nam trong việc thực hiện các mục tiêu đảm bảo an ninh, phát triển và nâng cao vị thế của đất nước. Bài viết tập trung tìm hiểu quá trình phát triển tư duy của Đảng Cộng sản Việt Nam về hội nhập quốc tế, nhân tố quan trọng góp phần đem lại những thành tựu đáng kể trong sự nghiệp đổi mới đất nước nói chung và đổi mới về đối ngoại nói riêng.
The research aims to assess the current groundwater resources management in Bac Lieu province. The combination of descriptive statistic and interview approach (including individual interview and key informant panel) were applied based on the principles of water governance framework developed by the Organization of Economic Co-operation and Development (OECD) to assess the policy coherence and the transparency and stakeholder engagement of the groundwater management. The study showed that the current groundwater resources management improved overtime; however, the policies were not completely sufficient and the responsibility of the units related to the groundwater resources management was not indicated clearly yet. Thus, overlaps in function of different management units are found and the access of the local people to the groundwater management was limited. In addition, the stakeholder involvement in managing the groundwater resources was in short of both amount and qualification. The separation of powers seems to be higher and higher, the local government has the main responsibility to manage the groundwater and the communities, especially the local people still have low rate of participation in the groundwater resources management process. ; Nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá hiện trạng quản lý nguồn tài nguyên nước dưới đất (NDĐ) tại tỉnh Bạc Liêu. Sự kết hợp giữa phương pháp thống kê mo tả va phương pháp phỏng vấn (bao gồm phỏng vấn cá nhân và phỏng vấn chuyên gia)dựa trên những quy định về quản trị tài nguyên nước của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD – Organization for Economic Cooperation and Development) được áp dụng để đánh sự chặt chẽ của các chính sách quản lý, sự minh bạch của công tác quản lý và sự tham gia của các bên có liên quan. Kết quả cho thấy, cơ chế quản lý nguồn tài nguyên NDĐ đã và đang dần hoàn thiện, song các chính sách quản lý vẫn còn chưa đầy đủ và trách nhiệm của các đơn vị quản lý vẫn chưa được quy định rõ ràng. Vì vậy, đến nay công tác quản lý còn phát sinh sự chồng chéo và thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng có liên quan cũng như sự liên kết giữa cơ quan quản lý địa phương và người sử dụng tài nguyên NDĐ. Thêm vào đó, các bên có liên quan tham gia vào quản lý nguồn tài nguyên NDĐ còn hạn chế về cả số lượng và năng lực, trong đó chính quyền địa phương là đơn vị quản lý chính; do vậy, sự tập trung quyền hạn vào một chủ thể (chính quyền địa phương) là rất cao và sự tham gia của cộng đồng, đặc biệt là người sử dụng NDĐ, còn hạn chế.