Suchergebnisse
Filter
World Affairs Online
IMPORT, EXPORT AND ECONOMIC DEVELOPMENTS OF THE LAO PEOPLE'S DEMOCRATIC REPUBLIC ; HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU VÀ SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA CỦA NƯỚC CHDCND LÀO
Import and export activities have contributed greatly to the development of the Lao People\'s Democratic Republic over the last years. By means of descriptive statistical analysis, comparison, comtrast, synthesis, and generalization of the data released by the National Statistical Bureau and world's financial institutions such as the International Monetary Fund (IMF) or the World Bank (WB), this paper will clarify the successes in the economic developments of Laos, the successes and shortcomings of import and export activities, the impacts of the results of the import and export activities on the country\'s economic growth. Finally, the article will make implications of the country\'s import development policies of the Lao People's Democratic Republic in the years to come. ; Hoạt động xuất nhập khẩu đóng góp rất lớn vào sự phát triển của nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào trong những năm qua. Bài báo này bằng phương pháp phân tích thống kê mô tả, so sánh, đối chiếu, tổng hợp và khái quát hóa các số liệu của Tổng cục Thống kê nước này và của các định chế tài chính thể giới như Quỹ tiền tệ thế giới - IMF hay Ngân hàng thế giới WB. Từ đó bài báo đã làm rõ được những thành công trong phát triển kinh tế của Lào, những thành công và yếu kém của hoạt động xuất nhập khẩu, tác động từ kết quả của hoạt động xuất nhập khẩu tới tăng trưởng kinh tế của quốc gia này. Nội dung cuối cùng của bài viết là các hàm ý chính sách phát triển xuất nhập khẩu của nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào trong những năm tới.
BASE
EU enlargement and its impact on Vietnam: Mo rong EU va cac tac dong doi voi Viet Nam
EU enlargement and South East Asia, Vietnam's opportunities for cooperation, international political implications. Developments in new EU member states and their relations with Vietnam (Poland, Slovakia, Czech Rep., Hungary)
World Affairs Online
ASEAN - CHINA DIALOGIC RELATION: REASONS, ESTABLISHMENT AND SIGNIFICANCE ; QUAN HỆ ĐỐI THOẠI ASEAN - TRUNG QUỐC: NGUYÊN NHÂN, QUÁ TRÌNH VÀ Ý NGHĨA
The ASEAN-China dialogic relation was started at the 24th ASEAN Foreign Ministers Meeting in July 1991 in Kuala Lumpur, Malaysia. After more than two decades of development, the ASEAN-China cooperation has become one of the most active and effective partnerships among ASEAN relationships with dialogic partners. This relationship has made great contributions to the peace, security and development of Southeast Asia in general, ASEAN and China in particular. This article focuses on analyzing factors that led to the establishment of the ASEAN-China relationship, the process of establishing their dialogue relation and the significance of this relation. ; Quan hệ đối thoại ASEAN - Trung Quốc đã được bắt đầu tại Hội nghị Ngoại trưởng các nước ASEAN lần thứ 24 họp vào tháng 7 năm 1991 tại Kuala Lumpur, Malaysia. Sau hơn hai thập niên phát triển, quan hệ hợp tác ASEAN - Trung Quốc đã trở thành một trong các mối quan hệ hợp tác sôi động nhất và hiệu quả nhất trong số các quan hệ của ASEAN với các đối tác đối thoại. Mối quan hệ này đã có những đóng góp to lớn đối với hòa bình, an ninh và phát triển của Đông Nam Á nói chung, ASEAN và Trung Quốc nói riêng. Bài viết tập trung đi vào phân tích những nhân tố dẫn đến sự ra đời quan hệ ASEAN - Trung Quốc, cho đến quá trình thiết lập quan hệ đối thoại và ý nghĩa của việc thành lập quan hệ đối thoại giữa hai bên.
BASE
Assessing the groundwater resources management in the Bac Lieu Province, Mekong delta, Vietnam
The research aims to assess the current groundwater resources management in Bac Lieu province. The combination of descriptive statistic and interview approach (including individual interview and key informant panel) were applied based on the principles of water governance framework developed by the Organization of Economic Co-operation and Development (OECD) to assess the policy coherence and the transparency and stakeholder engagement of the groundwater management. The study showed that the current groundwater resources management improved overtime; however, the policies were not completely sufficient and the responsibility of the units related to the groundwater resources management was not indicated clearly yet. Thus, overlaps in function of different management units are found and the access of the local people to the groundwater management was limited. In addition, the stakeholder involvement in managing the groundwater resources was in short of both amount and qualification. The separation of powers seems to be higher and higher, the local government has the main responsibility to manage the groundwater and the communities, especially the local people still have low rate of participation in the groundwater resources management process. ; Nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá hiện trạng quản lý nguồn tài nguyên nước dưới đất (NDĐ) tại tỉnh Bạc Liêu. Sự kết hợp giữa phương pháp thống kê mo tả va phương pháp phỏng vấn (bao gồm phỏng vấn cá nhân và phỏng vấn chuyên gia)dựa trên những quy định về quản trị tài nguyên nước của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD – Organization for Economic Cooperation and Development) được áp dụng để đánh sự chặt chẽ của các chính sách quản lý, sự minh bạch của công tác quản lý và sự tham gia của các bên có liên quan. Kết quả cho thấy, cơ chế quản lý nguồn tài nguyên NDĐ đã và đang dần hoàn thiện, song các chính sách quản lý vẫn còn chưa đầy đủ và trách nhiệm của các đơn vị quản lý vẫn chưa được quy định rõ ràng. Vì vậy, đến nay công tác quản lý còn phát sinh sự chồng chéo và thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng có liên quan cũng như sự liên kết giữa cơ quan quản lý địa phương và người sử dụng tài nguyên NDĐ. Thêm vào đó, các bên có liên quan tham gia vào quản lý nguồn tài nguyên NDĐ còn hạn chế về cả số lượng và năng lực, trong đó chính quyền địa phương là đơn vị quản lý chính; do vậy, sự tập trung quyền hạn vào một chủ thể (chính quyền địa phương) là rất cao và sự tham gia của cộng đồng, đặc biệt là người sử dụng NDĐ, còn hạn chế.
BASE
THE POLICY OF INTERNATIONAL INTEGRATION ACCORDING TO THE RESOLUTION OF THE ELEVENTH NATIONAL CONGRESS OF THE COMMUNIST PARTY OF VIETNAM ; CHỦ TRƯƠNG HỘI NHẬP QUỐC TẾ THEO NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẢNG TOÀN QUỐC LẦN THỨ XI
International economic integration is one of the major policies of the Vietnam's Government and the Communist Party of Vietnam (CPV) in the time of doi moi (renovation). This policy has been mentioned in several important resolutions and been implemented intensively since the Ninth National Congress of CPV. Through the national congresses of CPV, the policy of international economic integration has had new developments with new contents which have met the requirements of the domestic situation and matched with the general trend of our time. The Eleventh National Congress of CPV have developed the policy of foreign relations to a new height, in which international integration has become a major orientation of foreign relations. With this orientation, the characteristics and the level of international intergation have been improved, the scope of international integration has been extended. ; Hội nhập kinh tế quốc tế là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới. Chủ trương đó đã được đề cập đến trong nhiều nghị quyết quan trọng và được triển khai mạnh mẽ từ Đại hội IX đến nay. Qua các kỳ Đại hội Đảng, chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế đã có những bước phát triển mới với những nội dung mới, vừa đáp ứng đòi hỏi của tình hình trong nước vừa phù hợp với xu thế chung của thời đại. Đại hội XI của Đảng đã phát triển đường lối, chính sách đối ngoại lên một tầm cao mới, trong đó, hội nhập quốc tế trở thành định hướng đối ngoại lớn. Với định hướng này, tính chất và trình độ hội nhập quốc tế được nâng cao, phạm vi hội nhập quốc tế được mở rộng.
BASE
Establishment of the criteria of the green city for developing cities
Building a livable city is the top objective of local governments. 'Green City' is concerned, researched, and constructed effectively in some cities around the world. The paper is to identify a green city's benefits to humans and the environment. Moreover, this study also establishes criteria of the green city according to international standards in emerging cities, especially in 5 criteria such as green space and land use, atmosphere, water resource, and energy supply. Finally, the criteria of the green city established are used for scoring and assessing Vung Tau city. Currently, Vung Tau city has 60.9 scores below a green city's standards with 65 scores; however, it can be changed by proposals in development policies to get 69.3 scores. ; Việc xây dựng một thành phố đáng sống là một mục tiêu hàng đầu của các chính phủ địa phương. Thành phố xanh "Green City" đang được quan tâm, nghiên cứu, và xây dựng một cách hiệu quả tại nhiều thành phố trên thế giới. Bài báo này sẽ làm rõ ràng những chức năng mà một thành phố xanh mang lại. Ngoài ra, nghiên cứu này cũng xây dựng những tiêu chí của thành phố xanh đạt tiêu chuẩn quốc tế tại các thành phố đang phát triển, đặc biệt là 5 tiêu chí không gian xanh và sử dụng đất; giao thông; không khí; nguồn nước; nguồn năng lượng. Hơn nữa, việc ứng dụng các tiêu chí thành phố xanh cho việc chấm điểm và đánh giá Thành phố Vũng Tàu. Hiện nay, thành phố Vũng Tàu được chấm 60.9 điểm, mức điểm này ở dưới tiêu chuẩn của một thành phố xanh là 65 điểm, tuy nhiên trong tương lai gần với những chính sách phát triển phù hợp thì số điểm này có thể tăng lên đến 69.3 điểm.
BASE
Review of postharvest rice straw use: change in use and the need for sustainable management policies in Vietnam
Annually, about 40-60 million tons of postharvest straw are generated in Vietnam. Although considered as renewable resources and economic goods, straw is still burned in the field because there is no longer needed for cooking, roofing and fodder as before 1990s. The general economic development of the country and the rural area changed all the previous practices of using straw. This paper analyzes the socio-economic and technical causes of this phenomenon and summarizes the economic and environmentally friendly uses of rice straw in the future. In addition, it points out that policy failures in the management of straw currently exist and that policies for integrated straw management are needed to improve the value chain in the supply and consumption of straw products; to enhance the effectively use of this resource and minimize environmental pollution. ; Hàng năm phát sinh khoảng 40-60 triệu tấn rơm sau thu hoạch ở Việt Nam. Mặc dù được coi là tài nguyên tái tạo và hàng hóa kinh tế, song rơm vẫn bị đốt bỏ ở ngoài ruộng do không còn nhu cầu nhiều cho đun nấu, lợp mái nhà và chăn nuôi như trước những năm 1990. Tình hình phát triển kinh tế chung của đất nước và khu vực nông thôn đã làm thay đổi tất cả thói quen dùng rơm rạ trước đây. Bài báo này phân tích một cảnh tổng quan những nguyên nhân kinh tế - xã hội và kỹ thuật dẫn đến hiện tượng này, tổng hợp những khả năng sử dụng kinh tế và thân thiện môi trường của rơm rạ trong tương lai. Ngoài ra chỉ ra những thất bại về chính sách trong quản lý rơm rạ hiện nay và cần có các chính sách quản lý tổng hợp rơm rạ để nâng cao chuỗi giá trị trong cung ứng và tiêu thụ các sản phẩm rơm rạ, tăng cường việc sử dụng có hiệu quả tài nguyên này và giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
BASE