Suchergebnisse
Filter
31 Ergebnisse
Sortierung:
POLITICAL RELATIONSHIP BETWEEN INDIA AND MYANMAR FROM 1992 TO 2011 ; QUAN HỆ CHÍNH TRỊ ẤN ĐỘ - MYANMAR GIAI ĐOẠN 1992 – 2011
Historically, India and Myanmar are neighboring countries and have maintained a close and friendly relationship. This has led to their similarities in the social systems, cultures and religions. After Myanmar had gained its independence in 1948, India – Myanmar relationship was officially established and went through certain bad times till 1992. Since early 1990s, to adapt to the new global situation and thanks to India's "Look East" policy, the relationship between these two countries has gradually been improved and reinforced. The two countries are now not only neighbors but also friends and associates. This paper aims to clarify India – Myanmar diplomatic relationship and, accordingly, draws conclusive comments on this relationship in the post-Cold-War period. ; Về mặt lịch sử, Ấn Độ và Myanmar vốn là hai quốc gia láng giềng có các mối quan hệ gần gũi và thân thiện, có hệ thống xã hội, văn hóa và tôn giáo tương đồng. Quan hệ Ấn Độ - Myanmar được xem như chính thức bắt đầu ngay sau ngày Myanmar giành được độc lập (1948) và từ đó cho đến trước năm 1992, mối quan hệ giữa hai nước đã trải qua nhiều biến cố, thăng trầm. Từ đầu thập niên 1990, trong xu thế của bối cảnh quốc tế mới cùng với việc triển khai chính sách Hướng Đông của Ấn Độ, quan hệ hai nước đã từng bước được cải thiện, củng cố và tăng cường, qua đó đưa hai nước xích lại gần nhau như những người láng giềng thân thiện, bạn bè và đối tác. Bài viết dưới đây nhằm làm sáng tỏ quan hệ Ấn Độ - Myanmar trên lĩnh vực chính trị, qua đó rút ra một số nhận xét trong quan hệ chính trị hai nước thời kì sau Chiến tranh lạnh.
BASE
World Affairs Online
ASEAN - CHINA DIALOGIC RELATION: REASONS, ESTABLISHMENT AND SIGNIFICANCE ; QUAN HỆ ĐỐI THOẠI ASEAN - TRUNG QUỐC: NGUYÊN NHÂN, QUÁ TRÌNH VÀ Ý NGHĨA
The ASEAN-China dialogic relation was started at the 24th ASEAN Foreign Ministers Meeting in July 1991 in Kuala Lumpur, Malaysia. After more than two decades of development, the ASEAN-China cooperation has become one of the most active and effective partnerships among ASEAN relationships with dialogic partners. This relationship has made great contributions to the peace, security and development of Southeast Asia in general, ASEAN and China in particular. This article focuses on analyzing factors that led to the establishment of the ASEAN-China relationship, the process of establishing their dialogue relation and the significance of this relation. ; Quan hệ đối thoại ASEAN - Trung Quốc đã được bắt đầu tại Hội nghị Ngoại trưởng các nước ASEAN lần thứ 24 họp vào tháng 7 năm 1991 tại Kuala Lumpur, Malaysia. Sau hơn hai thập niên phát triển, quan hệ hợp tác ASEAN - Trung Quốc đã trở thành một trong các mối quan hệ hợp tác sôi động nhất và hiệu quả nhất trong số các quan hệ của ASEAN với các đối tác đối thoại. Mối quan hệ này đã có những đóng góp to lớn đối với hòa bình, an ninh và phát triển của Đông Nam Á nói chung, ASEAN và Trung Quốc nói riêng. Bài viết tập trung đi vào phân tích những nhân tố dẫn đến sự ra đời quan hệ ASEAN - Trung Quốc, cho đến quá trình thiết lập quan hệ đối thoại và ý nghĩa của việc thành lập quan hệ đối thoại giữa hai bên.
BASE
U.S. POLICY FROM DIEN BIEN PHU TO THE FORMATION OF THE SOUTHEAST ASIA COLLECTIVE DEFENSE TREATY ; Chính sách của Mỹ từ Điện Biên Phủ đến hình thành tổ chức hiệp ước phòng thủ tập thể Đông Nam Á
Dien Bien Phu is a great historic event, not only of great significance for Vietnam but also for the peoples of the world in the struggle against colonialism for national independence. Besides, the Dien Bien Phu victory also affected the policies of some world powers including the United States. The U.S. policy from Dien Bien Phu to block the formation of the Southeast Asia Treaty Organization (SEATO) show consistency in the global strategy against communism in Vietnam and the Southeast Asia in general. The failure together with the French at Dien Bien Phu urged America to do another plan implemented to form a common block of collective defense with the allies of the United States, against the risk of spreading communism in the region. ; Điện Biên Phủ là sự kiện lịch sử trọng đại, không những có ý nghĩa to lớn đối với Việt Nam mà còn tác động không nhỏ tới nhân dân thế giới trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân giành độc lập dân tộc. Bên cạnh đó, Điện Biên Phủ còn là chiến thắng ảnh hưởng đến chính sách của một số cường quốc trên thế giới trong đó có Mỹ. Chính sách của Mỹ từ Điện Biên Phủ tới hình thành khối hiệp ước phòng thủ chung Đông Nam Á (SEATO) thể hiện sự nhất quán trong chiến lược toàn cấu chống chủ nghĩa cộng sản của Mỹ tại Việt Nam nói riêng và Đông Nam Á nói chung. Thất bại cùng với Pháp ở Điện Biên Phủ đã dẫn đến kế hoạch khác mà Mỹ thực hiện là hình thành một khối phòng thủ tập thể chung của các nước đồng minh với Mỹ, chống lại nguy cơ lan rộng của chủ nghĩa cộng sản trong khu vực.
BASE
THE POLICY OF INTERNATIONAL INTEGRATION ACCORDING TO THE RESOLUTION OF THE ELEVENTH NATIONAL CONGRESS OF THE COMMUNIST PARTY OF VIETNAM ; CHỦ TRƯƠNG HỘI NHẬP QUỐC TẾ THEO NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẢNG TOÀN QUỐC LẦN THỨ XI
International economic integration is one of the major policies of the Vietnam's Government and the Communist Party of Vietnam (CPV) in the time of doi moi (renovation). This policy has been mentioned in several important resolutions and been implemented intensively since the Ninth National Congress of CPV. Through the national congresses of CPV, the policy of international economic integration has had new developments with new contents which have met the requirements of the domestic situation and matched with the general trend of our time. The Eleventh National Congress of CPV have developed the policy of foreign relations to a new height, in which international integration has become a major orientation of foreign relations. With this orientation, the characteristics and the level of international intergation have been improved, the scope of international integration has been extended. ; Hội nhập kinh tế quốc tế là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới. Chủ trương đó đã được đề cập đến trong nhiều nghị quyết quan trọng và được triển khai mạnh mẽ từ Đại hội IX đến nay. Qua các kỳ Đại hội Đảng, chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế đã có những bước phát triển mới với những nội dung mới, vừa đáp ứng đòi hỏi của tình hình trong nước vừa phù hợp với xu thế chung của thời đại. Đại hội XI của Đảng đã phát triển đường lối, chính sách đối ngoại lên một tầm cao mới, trong đó, hội nhập quốc tế trở thành định hướng đối ngoại lớn. Với định hướng này, tính chất và trình độ hội nhập quốc tế được nâng cao, phạm vi hội nhập quốc tế được mở rộng.
BASE
Review of postharvest rice straw use: change in use and the need for sustainable management policies in Vietnam
Annually, about 40-60 million tons of postharvest straw are generated in Vietnam. Although considered as renewable resources and economic goods, straw is still burned in the field because there is no longer needed for cooking, roofing and fodder as before 1990s. The general economic development of the country and the rural area changed all the previous practices of using straw. This paper analyzes the socio-economic and technical causes of this phenomenon and summarizes the economic and environmentally friendly uses of rice straw in the future. In addition, it points out that policy failures in the management of straw currently exist and that policies for integrated straw management are needed to improve the value chain in the supply and consumption of straw products; to enhance the effectively use of this resource and minimize environmental pollution. ; Hàng năm phát sinh khoảng 40-60 triệu tấn rơm sau thu hoạch ở Việt Nam. Mặc dù được coi là tài nguyên tái tạo và hàng hóa kinh tế, song rơm vẫn bị đốt bỏ ở ngoài ruộng do không còn nhu cầu nhiều cho đun nấu, lợp mái nhà và chăn nuôi như trước những năm 1990. Tình hình phát triển kinh tế chung của đất nước và khu vực nông thôn đã làm thay đổi tất cả thói quen dùng rơm rạ trước đây. Bài báo này phân tích một cảnh tổng quan những nguyên nhân kinh tế - xã hội và kỹ thuật dẫn đến hiện tượng này, tổng hợp những khả năng sử dụng kinh tế và thân thiện môi trường của rơm rạ trong tương lai. Ngoài ra chỉ ra những thất bại về chính sách trong quản lý rơm rạ hiện nay và cần có các chính sách quản lý tổng hợp rơm rạ để nâng cao chuỗi giá trị trong cung ứng và tiêu thụ các sản phẩm rơm rạ, tăng cường việc sử dụng có hiệu quả tài nguyên này và giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
BASE