Accounting for nearly 80% of the global population and occupying three quarters of the world' area, the developing countries are affirming their roles in the global progress. However, the independence and sovereignty of these countries are often faced with many challenges stemming from upheavals in the international security environment, globalization, violence policies of big countries and power competition among them. In this context, in order to preserve their independence and sovereignty, the developing countries need to build democratic and progressive states, improve their real national strengths, struggle against the "peaceful evolution" of the powerful nations. This paper analyzes factors which influence the independence and sovereignty as well as the current process of struggling and defending the independence and sovereignty of the developing countries ; Chiếm khoảng 80% dân số và ¾ diện tích toàn cầu, các nước đang phát triển đang khẳng định vai trò, vị thế của mình trong đời sống quốc tế. Tuy nhiên, độc lập, chủ quyền của các nước đang phát triển luôn đứng trước nhiều thách thức đến từ những biến động của môi trường an ninh quốc tế; chính sách cường quyền của các nước lớn; quá trình toàn cầu hóa; sự cạnh tranh quyền lực của các nước lớn. Trong bối cảnh đó, để giữ được độc lập, chủ quyền, các nước đang phát triển cần xây dựng một nhà nước dân chủ, tiến bộ; tăng cường thực lực quốc gia; đấu tranh chống "diễn biến hòa bình" của các nước lớn. Bài viết phân tích những nhân tố tác động đến độc lập, chủ quyền và quá trình đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền của các nước đang phát triển hiện nay.
Historically, India and Myanmar are neighboring countries and have maintained a close and friendly relationship. This has led to their similarities in the social systems, cultures and religions. After Myanmar had gained its independence in 1948, India – Myanmar relationship was officially established and went through certain bad times till 1992. Since early 1990s, to adapt to the new global situation and thanks to India's "Look East" policy, the relationship between these two countries has gradually been improved and reinforced. The two countries are now not only neighbors but also friends and associates. This paper aims to clarify India – Myanmar diplomatic relationship and, accordingly, draws conclusive comments on this relationship in the post-Cold-War period. ; Về mặt lịch sử, Ấn Độ và Myanmar vốn là hai quốc gia láng giềng có các mối quan hệ gần gũi và thân thiện, có hệ thống xã hội, văn hóa và tôn giáo tương đồng. Quan hệ Ấn Độ - Myanmar được xem như chính thức bắt đầu ngay sau ngày Myanmar giành được độc lập (1948) và từ đó cho đến trước năm 1992, mối quan hệ giữa hai nước đã trải qua nhiều biến cố, thăng trầm. Từ đầu thập niên 1990, trong xu thế của bối cảnh quốc tế mới cùng với việc triển khai chính sách Hướng Đông của Ấn Độ, quan hệ hai nước đã từng bước được cải thiện, củng cố và tăng cường, qua đó đưa hai nước xích lại gần nhau như những người láng giềng thân thiện, bạn bè và đối tác. Bài viết dưới đây nhằm làm sáng tỏ quan hệ Ấn Độ - Myanmar trên lĩnh vực chính trị, qua đó rút ra một số nhận xét trong quan hệ chính trị hai nước thời kì sau Chiến tranh lạnh.
Climate change has been affecting to livelihoods of communities in the coastal plain of the Vietnamese Mekong Delta (VMD). Surface water management in the coastal plain was considered to be limited, especially in enforcement. Therefore, the research aimed to assess the stakeholder involvement, identify the conflict in using the surface water and mechanism to solve and avoid the conflict. The directive interview farmers and governmental staffs was implemented to collect the necessary data. The descriptive statistic was applied in order to analyze the collecting data through farmer survey. The questionnaire was built based on the governance assessment framework "Ten-building Block". The results showed that the governmental group (including the people committee and the Provincial department) was the highest participatory in the management process both in decision-making level and interested level. The surface water users, especially the farmers participated with the average rate because of their low capacity in making the decision for a new policy or a new agricultural model. Besides, different groups of stakeholders as the non-governmental organization and governmental organization (the local Youth Union, Famer's and Women's Association) played an important role in raising the water user's awareness. The remaining group, including nonagricultural company or traders, nearly were not concerned about the surface water changes. In addition, there were two main types of conflicts identified: between the farmers in the same kind (1) and different kind (2) of cultivation. As the consequence of the natural salinity and the impacts of output water from shrimp pond to the rice cultivation zone, the conflict was about the inefficient water regulation and distribution for each water user. These conflicts were mostly solved through self-negotiating and self-engaging between the farmers. In fact, there was no rule or principle to solve and prevent the potential water use conflict. Thus, this could be a great challenge for the surface water management in the agricultural zone as Soc Trang in the context of increasing the extreme climatic phenomenon. ; Biến đổi khí hậu đã và đang tác động lớn đến sinh kế của các cộng đồng ven biển đồng bằng sông Cứu Long (ĐBSCL). Công tác quản lý tổng hợp tài nguyên nước mặt tại vùng ven biển được cho rằng còn tồn tại nhiều hạn chế, nhất là trong triển khai và thực thi. Vì vậy, nghiên cứu được thực hiện tại Sóc Trăng (một tỉnh ven biển ĐBSCL) nhằm đánh giá sự tham gia của các thành phần có liên quan, xác định các mâu thuẫn trong sử dụng nguồn nước mặt cũng như các giải pháp giải quyết và phòng tránh mâu thuẫn. Phương pháp phỏng vấn trực tiếp nông hộ, tham vấn chuyên gia quản lý và thống kê mô tả được áp dụng để đánh giá các mục tiêu đặt ra của đề tài. Các thông tin khảo sát được xây dựng dựa trên bộ mười tiêu chí đánh giá quản trị tài nguyên nước (van Rijswick et al., 2014). Kết quả cho thấy nhóm chính quyền địa phương (bao gồm UBND và các Sở/Ngành) có vai trò và mức độ tham gia cao nhất trong chu trình quản lý. Người sử dụng nước mặt, nhất là nông dân đóng góp sự tham gia tương đối do mức đô ra quyết định về thiết lập chính sách và lựa chọn mô hình canh tác thấp. Mặt khác, các nhóm đối tượng khác như các tổ chức phi chính phủ, Đoàn thể, Hội nông dân và Hội phụ nữ đóng góp vai trò quan trọng trong nâng cao nhận thức và kêu gọi cộng đồng sử dụng hiệu quả nguồn nước mặt. Các nhóm tổ chức kinh tế như doanh nghiệp, tiểu thương gần như không quan tâm đến nguồn nước mặt. Bên cạnh đó, các mâu thuấn về sử dụng nước mặt cũng được xác định. Các mâu thuẫn được phân chia thành 2 nhóm: cùng loại hình canh tác và giữa các loại hình canh tác khác nhau. Các mâu thuẫn chủ yếu về vấn đề điều tiết nguồn nước không hợp lý và thiếu cân bằng trong phân phối nước ngọt cho các đơn vị canh tác do xâm nhập mặn tự nhiên, xả thải nước mặn vào vùng ngọt và khai thác không đồng đều. Các mâu thuẫn này chủ yếu được giải quyết thông qua thương lượng và thỏa thuân giữa các đối tượng có liên quan chứ chưa có bất kỳ một cơ chế hay quy định nào nhằm giải quyết cũng như phòng tránh các mâu thuẫn tiềm tàng. Vì vậy, đây sẽ là một thách thức lớn cho công tác quản lý nguồn nước mặt tại vùng sản xuất nông nghiệp thâm canh như Sóc Trăng trong bối cảnh gia tăng cực đoan khí hậu.